1. Vai trò của
khái niệm phế liệu
Các tranh cãi
khoa học ở việt nam trong thời gian qua về động đạn nhập cảng phế liệu không đề
cập tới Dấu hiệu để ghi nhận để quyết biệt phế liệu với các vật chất khác mà
chỉ quan tâm tới giá trị đời sống , những tác động tới môi trường của độ trượt
nhập cảng phế liệu và các ấn định về kiểm tra độ trượt này. Các thuật ngữ liên
đới như phế liệu , phế thải , chất thải... Không được phân tách , đánh giá dựa
trên những Dấu hiệu để ghi nhận mang tính pháp lý mà được sử dụng như những
thuật ngữ bình thường , thuật ngữ xã hội học và mặc nhiên được công nhận trong
lĩnh vực có tính khoa học pháp lý. Dễ thường bởi thế mà cho đến nay , xung
quanh khái niệm phế liệu và các khái niệm liên đới Vẫn nhiều Sự tình chưa được
giải quyết triệt để trên bình diện lý luận cũng như luật thực định. Trong lúc
đó , một vật chất cụ thể nào đó được ngó là chế phẩm hoặc phế liệu hoặc là chất
thải có vai trò hạ quyết tâm trong việc vận dụng những ấn định khác nhau của
pháp luật. Dưới góc độ môi trường , việc xem xét , đánh giá một vật chất là phế
liệu hoặc chất thải có ý nghĩa hạ quyết tâm trong việc vận dụng các ấn định
khác nhau của pháp luật môi trường về độ trượt nhập cảng , như về điều kiện
nhập cảng , kiểm tra độ trượt nhập cảng và trách nhiệm pháp lý khi xuất hiện
hàng động vi phạm. Trong điều kiện như vậy , việc làm rõ những Dấu hiệu để ghi
nhận cơ bản và thực chất pháp lý của khái niệm phế liệu có ý nghĩa quan trọng ,
là một nội dung trọng điểm cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
môi trường nói chung và pháp luật môi trường về độ trượt nhập cảng phế liệu nói
riêng.
2. Khái niệm phế
liệu
Dưới góc độ ngữ
nghĩa , phế liệu được hiểu là những nguyên liệu bị bỏ đi , không dùng đến nữa
sau quá trình sử dụng. Theo cách hiểu này , phế liệu chỉ nảy sinh trong quá
trình sản xuất của con người.
tự vị Tiếng Việt
của Viện ngữ ngôn học định nghĩa "Phế liệu là khí vật từ những nguyên liệu
đã qua chế biến”. Theo cách hiểu này , tất thảy những vật chất nảy sinh sau quá
trình sử dụng nguyên liệu bị chủ sở hữu bỏ đi đều trở thành phế liệu. Định
nghĩa này đã không đưa ra Dấu hiệu để ghi nhận để phân trưæ ng phế liệu
với chất thải - là “rác và các khí vật sau một quá trình sử dụng”. Phế liệu
theo cách hiểu này là một dạng chất thải.
Trong lĩnh vực có
tính khoa học pháp lý , khái niệm phế liệu được định nghĩa lần đầu tiên tại
khoản 1 Điều 3 hạ quyết tâm số 03/2004/QĐ-BTNMT ngày 02/4/2004 của tổng trưởng
Bộ tài nguyên và môi trường về việc ban hành ấn định về bảo vệ môi trường đối
với phế liệu nhập cảng làm nguyên liệu sản xuất: "Phế liệu là chế phẩm ,
nguyên liệu được loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng nhưng đáp ứng yêu
cầu làm nguyên liệu sản xuất". Khái niệm phế liệu nối được Luật bảo vệ môi
trường 2005 ( Luật BVMT 2005 ) định nghĩa tại khoản 13 Điều 3: "Phế liệu
là chế phẩm , nguyên liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng được
thu hồi để dùng làm nguyên liệu sản xuất". Mặc dầu có sự khác biệt về việc
sử dụng một số từ ngữ trong hai định nghĩa này nhưng giữa các định nghĩa này
không có sự khác biệt về thực chất pháp lý.
Theo các định
nghĩa trên , vật chất sẽ trở thành phế liệu khi đáp ứng đầy đủ các Dấu hiệu để
ghi nhận sau:
Thứ nhất: Là chế
phẩm hoặc nguyên liệu
“Sản phẩm” là
những thứ do lao động của con người tạo ra. Các chế phẩm mà con người tạo ra có
thể sinh kế dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Dưới góc độ luật môi trường thì
đó chỉ có thể là những chế phẩm sinh kế dưới dạng vật thể thuộc thành phần môi
trường. Do đó , những chế phẩm phi vật thể không thuộc khái niệm phế liệu.
“Vật liệu” là
những vật để làm cái gì đó. Như vậy , nguyên liệu có thể là những vật chất thứ
tự của từ nhiên hoặc đã qua chế biến để có thể sử dụng trong sản xuất.
Thứ hai: bị loại
ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng
"Bị loại
ra" được hiểu là các chế phẩm hoặc nguyên liệu được đưa ra khỏi quá trình
sản xuất hoặc tiêu dùng. Đối với độ trượt tiêu dùng , được coi là “được loại
ra” khi chủ sở hữu không đưa nó vào khai thác giá trị , công dụng của vật chất
đó. Trong trường hợp sản xuất , hàng động “loại ra” cần có sự phân trưæ ng
giữa hàng động của người trực tiếp sản xuất ( thợ thuyền ) với hàng động loại
ra của chủ sở hữu hoặc người đại diện chính đáng của chủ sở hữu. Chỉ được ngó
là “được loại ra” khỏi quá trình sản xuất khi chủ sở hữu hoặc người đại diện
chủ sở hữu chủ động từ bỏ tâm khí sử dụng chế phẩm hoặc nguyên liệu đó vào quá
trình sản xuất và tiêu dùng. Điều này có nghĩa là một vật chất sinh kế dưới
dạng phế liệu hay không phụ thuộc vào hàng động của chủ sở hữu ( hoặc người đại
diện chính đáng ) chế phẩm hoặc nguyên liệu đó. Hàng động từ bỏ của chủ sở hữu
có thể được biểu hiện bằng Bắt đầu làm hoặc không hành động.
Thứ ba: Được thu
hồi dùng làm nguyên liệu
chế phẩm hoặc
nguyên liệu có trở thành phế liệu hay không phụ thuộc vào việc đánh giá trên
thực tế đối với hàng động "từ bỏ tâm khí khai thác giá trị , công
dụng" của chủ sở hữu và phải được xem xét một chung súc vật cày bừa và
canh tác thể đối với từng trường hợp , như thu hồi để bán dưới hình thức hàng
hóa , để sử dụng làm nguyên liệu hoặc để xử lý. Ví dụ như những quần áo cũ mà
chủ sở hữu không còn nhu yêu sử dụng , không có "ý định khai thác giá trị
, công dụng" của nó nhưng chủ sở hữu ngay sau khi từ bỏ , bán cho người
khác sử dụng với tư cách là hàng cũ ( dãy secondhand ) thì vật chất này
là hàng hóa. Trong trường hợp chủ sở hữu "từ bỏ tâm khí khai thác giá trị
, công dụng" của quần áo cũ nhưng sau đó lại đưa nó vào sử dụng làm nguyên
liệu sản xuất hoặc bán cho người khác làm nguyên liệu thì nó trở thành phế
liệu. Trong trường hợp chủ sở hữu "từ bỏ tâm khí khai thác giá trị , công
dụng" của quần áo cũ nhưng không có tâm khí sử dụng nó với bất cứ mục tiêu
gì thì nó có thể là chất thải phải xử lý. Khó có thể đưa ra những nguyên lý
chung cho việc đánh giá mục tiêu thu hồi của chủ sở hữu. Trên thực tế , việc
đánh giá mục tiêu thu hồi chỉ có thể thực hiện được trong những trường hợp cụ
thể thông qua việc xem xét , đánh giá hàng động , biểu hiện của chủ sở hữu.
3. Thực chất pháp
lý của phế liệu
cùng với khái
niệm phế liệu , Luật BVMT 2005 đề cập tới khái niệm chất thải như là một khái
niệm Đứng riêng ra với khái niệm phế liệu.
Luật môi trường
việt nam đã đưa ra định nghĩa chất thải tại khoản 10 Điều 3 Luật BVMT 2005 như
sau: "Chất thải là vật chất ở thể rắn , lỏng , khí được thải ra từ sản
xuất , dịch vụ , sinh tồn hoặc độ trượt khác” .
Theo định nghĩa
này , vật chất sẽ trở thành chất thải khi đáp ứng đầy đủ các Dấu hiệu để ghi
nhận sau:
Thứ nhất , chất thải là vật
chất , có thể sinh kế dưới những dạng như rắn , lỏng , khí hoặc các dạng khác.
Những yếu tố phi vật chất không thể là chất thải. Điều này cũng tuyệt đối phù
hợp với những yếu tố hình thành môi trường theo pháp luật môi trường.
thứ hai , vật chất bị chủ
sở hữu thải ra trong các độ trượt của mình , cả trường hợp chủ động và thụ động
, sẽ trở thành chất thải.
thứ ba , vật chất sẽ sinh
kế dưới dạng chất thải kể từ khi chủ sở hữu hoặc người sử dụng chính đáng thải
ra cho tới khi con người đưa nó vào sử dụng trong một chu trình sản xuất hoặc
chu trình sử dụng khác.
Cách tiếp cận của
Luật BVMT 2005 , nếu đưa ra được những Dấu hiệu để ghi nhận rõ ràng cho việc
phân trưæ ng chất thải với phế liệu , sẽ tạo điều kiện tiện lợi cho quá
trình xây dựng và vận dụng các ấn định trong độ trượt quản lý chất thải , thu mua phe lieu , trong đó có độ trượt nhập cảng phế liệu. Từ những phân tách ở trên ,
khái niệm chất thải và khái niệm phế liệu được đề cập tại Luật BVMT 2005 có
những sự khác biệt sau đây:
Thứ nhất , các yếu tố có thể
trở thành chất thải bao hàm các loại vật chất trong đó có chế phẩm và nguyên
liệu , là yếu tố có thể trở thành phế liệu.
thứ hai , với trường hợp
trở thành phế liệu , việc từ bỏ giá trị , công dụng của chủ sở hữu vật chất
mang tính chủ động. Trong trường hợp chất thải , việc từ bỏ giá trị công dụng
của chủ nhân vật chất hàm súc cả án kiện chủ động và bị động.
đệ tam , nhận thức chất
thải mô đề cập tới mục đích sau công tự bài tiết và luật pháp coi thu hồi đất
đai là một trong những nghĩa vụ của người sản sinh chất thải. Trong khi đó ,
mục đích "được thu hồi đất đai dụng tố vật liệu sản xuất" là một tiêu
chí của nhận thức biên giác liệu. Tiêu chí "được thu hồi đất đai dụng tố
vật liệu sản xuất" là tiêu chí mang tính định tính. Chúng ta khó có khả
năng đoan lượng được một chất thải cụ * được thu hồi đất đai có khả năng
"dùng làm nguyên liệu" cho một chu trình làm ra nào đó , được thực
hành ná lí đó trên bờ cõi việt nam hoặc thiên để hạ hay không. Luật pháp quốc
tế về hoàn cảnh và luật pháp các quốc gia không bạt thủ tiêu chí này để xác lập
nhận thức biên giác liệu và thung thử không phân công nhau biên giác liệu với chất
thải mà chỉ bạt thủ nhận thức duy nhất: chất thải ( tiếng Anh: waste ,
tiếng Đức: Abfall ) , bao quát trong án kiện thu hồi đất đai để tái sinh
, tái bạt thủ và án kiện thu hồi đất đai để xử lí. Theo vật thêm vào I của công
yêu Basel về rà soát tải chất thải gian truân quá quan và việc tiêu hủy chúng ,
phốc đằng thu hồi đất đai để tái bạt thủ cũng là một nghề nghiệp tiêu hủy và
bởi vậy vật chất bài tiết của các phốc đằng biến * nhưng được thu hồi đất đai
"dùng làm nguyên liệu" cũng là chất thải.
án chiếu khả thi
bạt thủ của chất thải , có khả năng phân loại chất thải thành hai loại: chất
thải không còn sử dụng giá trị ( chất thải sau cuối ) và chất thải còn khả thi
bạt thủ vào làm ra ( biên giác liệu ).
Từ đây kiến đắc
rằng , nội hàm của nhận thức chất thải rộng hơn và bao phủ cả nhận thức biên
giác liệu. Kiện đàm một biệt dạng , biên giác liệu là một dạng của chất thải.
<
0 nhận xét:
Đăng nhận xét